Bằng cách nào mà người ta đã thành công trong việc tàn sát phần lớn dân Do Thái ở châu Âu ? Quyết định tiêu diệt dân Do Thái ở châu Âu đã được bí mật ra lệnh ở cấp cao nhất của chính phủ Đức lúc bấy giờ. Thông qua phương tiện tuyên truyền tinh vi, sự kháng cự tự nhiên của công chúng đối với nạn diệt chủng đã bị vô hiệu hóa, cho nên các cuộc giết người hàng loạt đã được tiến hành mà không bị cản trở.
Trong cuốn Tâm lý diệt chủng, Robert Jay Lipton và Eric Markusen đã nghiên cứu các cơ chế tâm lý trong sự tàn bạo của bọn phát xít. “Cuộc diệt chủng cần có những kẻ chuyên nghiệp được đào tạo kỹ càng. Chúng cần thiết cho công nghệ đó, tổ chức đó và cơ sở hợp lẽ của nó. Trong trường hợp bọn phát xít, tất cả các tầng lớp – các thầy thuốc, nhà khoa học, kỹ sư, lãnh đạo quân sự, luật sư, giáo sĩ, giáo sư đại học và giáo viên phổ thông - đều được động viên một cách có hiệu quả vào đề án theo hệ tư tưởng đó”. Các tác giả nói thêm : “Một quốc gia muốn tiến hành cuộc diệt chủng phải tạo ra những tổ chức mới và thay đổi các tổ chức hiện có”.
Bọn thủ phạm phát xít là những tên đã được lựa chọn cẩn thận từ những kẻ chỉ biết vâng lời và trung thành. Những người Do Thái sẽ không bao giờ nhận ra rằng bọn phát xít Đức nghiêm túc thừa nhận đã tiêu diệt tất cả dân Do Thái như những kẻ thù của chế độ Quốc xã. Người Do Thái có tâm lý muốn chối bỏ ý nghĩ không thể hiểu được là mỗi người trong bọn họ đã bị buộc phải chết.
Đối với những người đủ mẫn cảm để nhận ra được điều này, thì những cái chết hàng loạt vì AIDS của người đồng tính tương tự như những cái chết hàng loạt của người Do Thái trong cuộc tàn sát của bọn Quốc xã. Các nhà khoa học đổ lỗi cho các con khỉ xanh và dân da đen châu Phi, công chúng thì đổ lỗi cho lối sống của người đồng tính, còn dân đồng tính thì tự đổ lỗi cho nhau và chính phủ Mỹ thì ít có hành động nào để ngăn số người đồng tính chết vì AIDS đang mỗi ngày một tăng. Trong nhiệm kỳ đầu làm tổng thống, Ronald Reagan chưa từng một lần nhắc đến AIDS giữa công chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Adofl Hitler, bọn Quốc xã, trong chương trìnhd diệt chủng của chúng, đầu tiên đã tìm sự hợp tác của các thầy thuốc Đức. Khoảng một nửa trong số họ là thành viên của đảng Quốc xã. Các bác sĩ đó là các nhà kiến trúc và thủ phạm tạo ra Chương trình “T-4” – cái chết cưỡng bức êm ái - trước chiến tranh của Hitler, dẫn tới cái chết của một trăm ngàn người Đức tàn tật về thể chất và tâm thần, nhằm “thanh lọc” dân Đức.
Sau đó, Hitler tìm kiếm sự ủng hộ của quần chúng đối với sứ mệnh của hắn. Các cuộc tập hợp chính trị đã được biến thành những cảnh tượng tập hợp công chúng đông đảo chưa từng thấy từ thời La Mã cổ đại. Những người Đức đã bị thôi miên để tin rằng họ là một dân tộc nửa thần thánh. Những người không dễ bị ảnh hưởng của chiến dịch tuyên truyền về chủng tộc siêu việt thì bị nói cạnh khóe, gây chuyện, đe dọa, ép buộc, tống giam và cuối cùng bị thủ tiêu. Làm như vậy, Hitler đã lôi kéo nhân dân vào một cơn cuồng loạn giết người hàng loạt chống lại các kẻ thù của họ - những kẻ thù thực và tưởng tượng.
Như họ đã từng bị gán tội trong hai ngàn năm, những người Do Thái lại bị gọi là những kẻ giết Chúa Giêsu. Họ là những người cộng sản quyết tâm phá hoại dân tộc Đức, bỏ tiền cho bọn ăn bám hút máu nhân dân Đức. Dân Do Thái là khối u ung thư cần phải cắt bỏ khỏi nước Đức bệnh tật. Dân Do Thái là vi trùng phải thanh lọc khỏi cơ thể nước Đức.
Sứ mệnh của Hitler là loại bỏ dân Do Thái khỏi nước Đức, là trở thành vị cứu tinh. Trong cuốn sách Cuộc chiến đấu của tôi, hắn viết : “Dân Do Thái ngày nay là là kẻ kích động lớn nhất cho sự phá hoại oàn toàn nước Đức”. Hắn không muốn thấy nước Đức trở thành nạn nhân của “học thuyết mác xít kiểu Do Thái”. Theo quan điểm của hắn, nước Đức chỉ có thể thoát khỏi sự đe dọa của Cộng sản – Do Thái – Nga bằng cách trở thành một cộng đồng những người thống nhất về thể chất và tinh thần. Trong cộng đồng đó, người Do Thái, với cung cách ngoại lai, với tôn giáo và chủng tộc riêng, sẽ không có chổ đứng. Hắn kết luận “Tôi tin rằng tôi đang hành động phù hơp với ý chí của Đấng tạo hóa vạn năng, bằng cách bảo vệ mình chống lại bọn Do Thái, tôi đang chiến đấu cho công việc của Chúa”.
Cùng với những người Do Thái, cá kẻ thù khác cũng phải bị tiêu diệt : dân Gypxi, những người đồng tính, mại dâm, nghiện rượu, bọn ăn mày, bọn lêu lỗng, nhân chứng Giêhôva (Thàng viên của một tổ chức tôn giáo tin rằng ngày tận thế đã đến gần và mọi người sẽ bị sa xuống địa ngục trừ các thành viên của tổ chức đó - ND), hội viên hội Tam Điểm, các phần tử tội phạm và các cá nhân lệch lạc về mặt di truyền và chính trị làm vẩn đục sự thuần khiết của chế độ Quốc xã.
Trong những năm 1970, rất nhiều những người đàn ông đồng tính da trắng bộc lộ khuynh hướng tình dục một cách công khai. Bọn cuồng tín, phân biệt chủng tộc và bọn cực đoan da trắng phản ứng lại bằng cách liệt thêm “Bọn đàn ông đồng tính” vào hàng đầu danh sách những người mà chúng căm thù. Khi cuộc thử nghiệm viêm gan B bắt đầu năm 1978, những người đàn ông đồng tính có lẽ là thiểu số bị căm thù nhất ở Mỹ, bị khinh miệt hơn dân da đen và Do Thái.
Một thầy thuốc đồng tính da đen một lần đã bảo tôi rằng những người đàn ông đồng tính da trắng không hiểu hết những hậu quả chính trị và xã hội của việc công khai mình là người đồng tính. Khi những người da trắng tự nhận họ là đồng tính, họ đã mất mọi quyền lợi và sự bảo vệ đối với những người đàn ông da trắng có tính dục khác giới trong xã hội Mỹ. Người bác sĩ đó tin rằng bằng cách công khai từ bỏ tính dục khác giới, những đồng tính nam đã đặt họ vào một tình huống nguy hiểm. Ông dự đoán chính phủ sẽ đối xử tồi tệ với những người đàn ông đồng tính. Cẳng mấy chốc, những người đàn ông đồng tính sẽ biết thế nào là một người da đen ở Mỹ. Ông nghĩ, thậm chí còn tồi tệ hơn đối với các đồng tính nam, vì mọi người trong xã hội, kể cả người da đen và người Do Thái, đều căm ghét giới đồng tính nam.
Khi các cánh cửa bí mật được mở, Chính phủ Mỹ giật mình vì sức mạnh chính trị và những đòi hỏi xã hội của phong trào nhân quyền mới của các đồng tính nam và đồng tính nữ. Sau nhiều thế kỷ bị áp bức, hàng ngàn người đồng tính đang trở nên yên tâm hơn về bản năng giới tính của họ. Họ cảm thấy họ là những con người cũng tốt như ai, họ uốn bình đẳng với những người có tính dục khác giới. Nhiều người Mỹ tính dục bình thường không thích bản năng giới tính trơ trẽn của cái giống đồng tính mới ấy. Yêu cầu cải cách xã hội của những người đồng tính nam và đồng tính nữ đã đặc biệt gây tức giận giới tôn giáo cánh hữu.
Trong một thế kỷ, những người đồng tính đã bị phân loại sai lầm như những kẻ rối loạn tâm lý. Dưới áp lực của những nhà hoạt động của giới đồng tính, Hội Tâm thần học Mỹ cuối cùng cũng đã loại những người đồng tính ra khỏi danh sách hững người ị bệnh tâm thần vào đầu những năm 1970. Tuy nhiên, Tổ chức Y tế thế giới vẫn phân loại đồng tính luyến ái như một bệnh tâm thần.
Chẳng bao lâu sau khi tình trạng tâm thần của họ được phân loại, những người đồng tính Mỹ phải đối đầu với vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác. Giờ đây sức khỏe của những người ông đồng tính được giới thẩm quyền y học lưu ý. Theo thống kê y tế của các nhà dịch tễ học cấp nhà nước, cộng đồng đồng tính bị nhiễm bệnh hoa liễu, mức nhiễm đáng sửng sốt nhất là viêm gan B.
Chính các bác sĩ Quốc xã là những người đầu tiên chứng tỏ rằng viêm gan là bệnh truyền nhiễm. Trong các thử nghiệm của họ, các thầy thuốc bắt các tù nhân trong trại tập trung ăn chất tạo ra từ dạ dày của những người đã bị vàng da vì bệnh gan. Khi các tù nhân sau đó bị ốm với chứng vàng da, các bác sĩ xác định rằng viêm gan có nhiều khả năng nhất gây ra bởi một nhân tố lây nhiễm, có lẽ là một loại vi rút.
Trong chiến tranh Thế giới thứ hai, hàng ngàn lính Mỹ tình cờ bị nhiễm viêm gan sau khi bị buộc tiêm chủng vác-xin. Lý do của dịch viêm gan được truy ra là từ các lo vác-xin sốt vàng da bị ô nhiễm. Vác-xin đó một phần được chế tạo từ huyết thanh người bị nhiễm tác nhân truyền viêm gan. Sau khi tiêm vác-xin sốt vàng da, những người lính bị nhiễm viêm gan trong huyết thanh.
Khi chứng minh rằng viêm gan B cũng là một bệnh lây truyền qua đường tình dục, người ta phát hiện ra rằng một nửa số người đồng tính đã bị nhiễm vi rút viêm gan B. Các nhà dịch tể học xác định rằng những người đàn ông đồng tính là một mối đe dọa tiềm tàng về sức khỏe công chúng, không chỉ đối với họ mà cho cả cộng đồng.
Trong nững năm 1970, cách sống chung chạ bừa bãi lan tràn không chỉ trong giới đồng tính mà cả trong những người có tính dục khác giới. Việc các thầy thuốc đồng tính nói về các bệnh "đặc biệt" có thể lây nhiễm cho giới khách hàng đồng tính của họ đã trở thành mốt.
Từ chuyên môn thời thượng là "tình dục đường hậu môn". Nó dường như liên quan đến nhiễm bệnh hoa liễu thường thấy ở dân đồng tính nam : lậu, giang mai, herpes, mụn cóc, ký sinh đường ruột, và đặc biệt là viêm gan. Các bệnh mới như "hội chứng ruột của người đồng tính nam" bắt đầu xuất hiện trong sách báo y học. Một triết lý mới được phổ biến nhấn mạnh rằng các nu cầu về y tế của người đồng tính nam khác với những người tính dục khác giới. Kết cục là các thủ lĩnh cộng đồng đồng tính gây áp lực với chính phủ Mỹ đòi chăm sóc y tế tốt hơn cho những người đồng tính.
Vì thái độ mới về y tế như thế, đông đảo những người đồng tính hoạt động tình nguyện có tinh thần công dân và lo lắng về sức khỏe đã thử loại vác-xin mới với hy vọng tiêu diệt bệnh viêm gan B trong giới đồng tính.
Công việc chuẩn bị cơ bản cho cuộc thử nghiệm bắt đầu từ năm 1970, khi dự án Y tế cho những người đàn ông đồng tính ở Manhattan cung cấp các mẫu máu để thử nghiệm viêm gan B ở trung tâm Máu thành phố NewYork. Các kết quả thật đáng kinh ngạc ! Cứ một trong hai mẫu máu của đồng tính nam là dương tính. Ngược lại, chỉ 5% mẫu máu của những người ính dục khác giới là dương tính.
Được phát triển tại Viện Merck nghiên cứu trị liệu ở West Point, Pensylvania, vác-xin thử nghiệm thô được thử nghiệm trên các con tinh tinh, loài động vật duy nhất bị nhiễm vi rút viêm gan B của người, sau này vác-xin được thử trên một nhóm nhỏ các trẻ em thiểu năng.
Khi vác-xin thử nghiệm đã sẵn sàng để thử rộng rãi hơn đối với con người, vài "nhóm nguy cơ cao" đã được xem xét. Đó là những người đồng tính nam, những người nghiện ma tuý, những người trưởng thành bị thiểu năng trí tuệ, những người Mỹ gốc Hoa, các thổ dân vùng Alaska, cùng các bệnh nhân và cán bộ y tế của các trung tâm thẩm tách thận. Sau nhiều tranh cãi, các nhà dịch tễ học quyết định rằng những người đồng tính nam trẻ chung chạ bừa bãi sẽ là nhóm tốt nhất để thử hiệu quả của vác-xin.
Wolf Szmuness, một thầy thuốc Ba Lan được đào tạo ở Liên Xô, được giao điều hành cuộc thử nghiệm vác-xin viêm gan B tại trung tâm Máu của thành phố New York. Các chi tiết sơ lược về cuộc đời ông xuất hiện trong một bài báo do Aaron Kellner, một đồng nghiệp ở trung tâm đó viết sau khi ông chết.
Szmuness là một người Do Thái sinh ra ở Ba Lan năm 1919. Khi bọn Quốc Xã xâm lược Ba Lan vào mùa hè năm 1939, ông đang là một sinh viên y khoa trẻ. Thời gian Ba Lan bị Đức và Liên Xô chia cắt, Szmuness bi đưa đi Xibêri như một phạm nhân. Toàn bộ gia đình ông ở miền Tây Ba Lan bị bọn Quốc Xã giết trong cuộc tàn sát người Do Thái. Những năm tháng đi đày ở Xibêri là "một thời kỳ dài đen tối mà ông không muốn nhắc đến".
Sau khi được trả tự do vào năm 1946, ông được phép tiếp tục chương trình mà ông học trước đó ở Tomsk, miền Trung nước Nga. Khi còn là một sinh viên, ông đã cưới một phụ nữ Nga. Ông học chuyên về ngành dịch tễ học, và khi vợ ông mắc phải căn bệnh viêm gan nặng, Szmuness quyết định dành cuộc đời mình cho việc nghiên cứu bệnh gan.
Szmuness đến Manhattan với 15 đô la trong túi. Nhờ sự can thiệp của Walsh McDermott, giáo sư y tế cộng đồng tại bệnh viện New York, Szmuness may mắn được làm kỹ thuật viên phòng thí nghiệm tại trung tâm Máu của thành phố New York. Sau vài năm, ông được giao phụ trách một phòng thí nghiệm, và một khoa Dịch tễ học tại trung tâm đã được thành lập cho riêng ông. Một thời gian ngắn sau đó, ông được chỉ định làm giáo sư trường Y tế cộng đồng Columbia.
Vào cuối những năm 1970, ông được tài trợ hàng triệu đô la cho công trình nghiên cứu và ông đã nghiên cứu thành công một cách ấn tượng với công trình nghiên cứu về viêm gan. Giờ đây, ông đã sẵn sàng đảm nhiệm sứ mệnh quan trọng nhất trong đời mình : điều hành cuộc thử nghiệm vác-xin viêm gan B.
Thoạt tiên, Szmuness làm quen với cộng đồng đồng tính nam, và đưa thêm những thầy thuốc và các nhà hoạt động đồng tính vào làm nhân viên của ông. Ông đến khu ở của dân đồng tính, ở đó ông xem xét các bồn tắm, quầy rượu sàn nhảy. Những kẻ đồng tính chung chạ bừa bãi là những con chuột thí nghiệm hoàn hảo. Không nghi ngờ gì nữa, họ sẽ chứng tỏ rằng Szmuness có thể quét sạch viêm gan B khỏi bề mặt trái đất.
Vào cuối những năm 1970, một đội cơ động bắt đầu đi vận động dân đồng tính ở khu làng Greenwich của Manhattan, tìm kiếm những người đồng tính hoạt động. Hơn mười ngàn người đàn ông đã ký kết và hiến mẫu máu cho cuộc thử nghiệm sắp tới của Szmuness.
Szmuness rất cẩn thận lựa chọn những người cuối cùng để thí nghiệm. Ông đòi hỏi những người đàn ông này phải là những người sống chung chạ bừa bãi, càng bừa bãi càng tốt. Ông đang thử một loại vác-xin chống vi rút lây truyền bằng đường tình dục. Do đó, ông không muốn thử nghiệm với với những người đàn ông sống một vợ một chồng hay những người đàn ông chỉ sống với một người tình. Ông cũng muốn thử nghiệm với cả những người đàn ông khỏe mạnh, trẻ trung, có trách nhiệm, thông minh, và nếu là người da trắng thì càng tốt. Những người lưỡng tính sống chung chạ bừa bãi cũng được chấp nhận, nhưng những người đàn ông có tính dục khác giới thì bị loại. Những người được chấp nhận phải có địa chỉ, số điện thoại rõ ràng, và phải sẵn sàng hiến máu trong một thời gian dài.
Thử nghiệm vác-xin viêm gan rất tốn kém và Szmuness không muốn thử nghiệm với những người không muốn hợp tác hoặc không có địa chỉ rõ ràng, gây khó khăn cho cuộc thử nghiệm. Có quá nhiều tiền đặt cược vào cuộc thử nghiệm này. Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC), Viện Y tế Quốc gia (NIH) và Viện quốc gia về Dị ứng và các bệnh truyền nhiễm đều tham gia vào cuộc nghiên cứu, ngoài ra còn có cả các công ty dược phẩm lớn như công ty Merck Sharp Dohme Inc., và Abbort Laboratories.
Trong các cuộc thử nghiệm sơ bộ, thoạt tiên, Szmuness thử vác-xin vào các con tinh tinh. Rồi ông tiến hành thử với hai trăm người đàn ông đồng tính tình nguyện bằng cách tiêm chủng vác-xin cho họ. Trong những tháng trước khi bắt đầu cuộc thử nghiệm chính thức, không có vấn đề gì xảy ra với các con tinh tinh hay những người tình nguyện đó. Szmuness sẵn sàng ấn định thời gian cho cuộc thử nghiệm cuối cùng - một cuộc thử nghiệm sẽ hủy diệt gần hết cộng đồng đồng tính - ở thành phố New York.
Nhóm những người đàn ông đồng tính đầu tiên đã được tiêm chủng vào tháng 11 năm 1978 ở trung tâm Máu của thành phố New York. Cuộc thử nghiệm được tiếp tục co đến tháng 10 năm 1979. Hơn một ngàn người đàn ông từ Manhattan đã được Szmuness tiêm vác-xin.
Tháng 1 năm 1979, vài tháng sau khi Wolf Szmuness bắt đầu cuộc thử nghiệm, những tổn thương da màu tím bắt đầu xuất hiện trên cơ thể những người đàn ông đồng tính da trắng trẻ tuổi ở làng Greenwich. Các bác sĩ không biết chính xác có gì nhầm lẫn đối với những người đàn ông đó. Sau ba mươi tháng, các thầy thuốc ở Manhattan đã phải tiếp nhận hàng chục ca bệnh mới với những đặc điểm chung là tất cả họ đều bị suy giảm miễn dịch, u ác tính trên da, và mắc một loại bệnh về phổi gây chết người nhanh chóng, được gọi là viêm phổi ở pneumocystis carinii. Tất cả họ đều còn rất trẻ, đồng tính, và có lối sống chung chạ bừa bãi. Phần lớn họ là người da trắng. Tất cả đều chết một cách khủng khiếp.
Trong vòng vài năm, AIDS trở thành nguyên nhân hàng đầu gây nên những cái chết của các nam nữ thanh niên ở thành phố New York. Khu vực Big Apple được xem là trung tâm của bệnh dịch với số người mắc AIDS cao nhất ước Mỹ.
Wolf Szmuness vô cùng sung sướng trước thành công to lớn của cuộc thử nghiệm vác-xin viêm gan. Tháng 3 năm 1980, trung tâm Kiểm soát Bệnh tật giám sát các cuộc thử nghiệm người đồng tính ở San Francisco, Los Angeles, Denver, St Louis và Chicago. Vào mùa thu năm 1980, ca AIDS đầu tiên ở Westcoast, San Francisco, xuất hiện ở một nam thanh niên.
Sáu tháng sau, tháng 6 năm 1981, AIDS đã "chính thức" trở thành dịch. Các nhà dịch tễ học và chuyên gia y tế không thể hiểu được tại sao một số lớn nam thanh niên da trắng đồng tính trước đây khỏe mạnh lại liên tục chết một cách bí ẩn ở Manhattan, San Francisco và Los Angeles.
Vào đầu những năm 1980, Szmuness được thưởng nhiều triệu đô la về công trình nghiên cứu của mình, và loại vác-xin viêm gan do ông chế tạo thành công được hoan nghênh như là loại thuốc có ý nghĩa to lớn đối với nhân loại. Ông hợp tác với các cơ quan y tế nổi tiếng của Mỹ : Viện Y tế Quốc gia, Viện Ung thư Quốc gia (NIC), Cơ quan quản lý dược - thực phẩm Hoa Kỳ (FDA), WHO, các khoa Y tế cộng đồng của các trường đại học như Cornell, Yale và Harvard và Viện Hàn lâm Y học Nga. Ông cũng có các quan hệ với Cơ quan Quốc tế Nghiên cứu Ung thư ở Lyons (Pháp), và kết hợp chặt chẽ với các nước châu Phi. Cacs quân nhân của quân đội Senegal cũng được Szmuness thuê để lấy các tiêu bản máu cho một trong nhiều cuộc thử nghiệm ở châu Phi.
Tháng 6 năm 1982, Wolf Szmuness chết đột ngột vì ung thư phổi. Tôi không thể tìm được các cáo phó về cái chết của ông trong bất kỳ tập san y học nào, trừ báo cáo của Aaron Kellner.
Kết thúc bản báo cáo về Szmuness và những thành tựu khoa học của ông sau khi ông chết, Aaron Kellner viết :"Ông là người thầy thuốc tiêu biểu nhất của nghề. Phần lớn các thầy thuốc trong cuộc đời sự nghiệp của mình có ảnh hưởng đến sinh mạng của vài trăm hay vài ngàn người. Một số thầy thuốc may mắn có thể có ảnh hương đến sinh mạg của vài triệu người. Hiếm có một người thầy thuốc như Wolf Szmuness được Chúa ban ân huệ có thể tác động đến sinh mạng của nhiều tỷ người - những con người đang sống trên hành tinh này và các thế hệ chưa sinh ra".
Công trình nghiên cứu có ảnh hưởng sâu rộng của Szmuness tại trung tâm Máu tiếp tục tác động tới các lục địa. Hiện nay, thái tử Alfred là người điều phối các chương trình của trung tâm này với WHO, với IARC ở Pháp và với Tổ chức Thống nhất châu Phi. Trung tâm này đã xác định rằng tất cả các hài nhi châu Phi da đen đều "có nguy cơ cao" về viêm gan; và cần được tiêm chủng. Một báo cáo năm 1983, công bố sau cái chết của Szmuness, đưa ra chi tiết của một chương trình thử nghiệm vác-xin viêm gan B mới ở Kangwane mà đối tượng là các hài nhi da đen Nam Phi.
Đa số mọi người không biết đến các cuộc thử nghiệm với người đồng tính diễn ra trước khi xảy ra những cái chết hàng loạt trong các khu ở của dân đồng tính. Nhưng các chi tiết về những cuộc thử nghiệm vác-xin và hiệu quả của chúng đối với sức khỏe của những người đàn ông đồng tính được ghi lại trong các niên giám y học.
Tuy cái chết của Szmuness không kèn không trống, nhưng ông vẫn được tưởng nhớ và tôn vinh bởi một nhóm nhỏ các nhà khoa học xuất sắc - nững người có thẩm quyền y học quốc gia và quốc tế đang điều hành ngành y, và những người tiêu biểu trong số những người được giới truyền thông ưa chuộng. Những người tỏ lòng kính trọng đối với Szmuness bao gồm các nhà khoa học hàng đầu về AIDS và ung thư, hai người đã phát hiện ra vi rút HIV, các nhà nghiên cứu nổi tiếng nhất về thử nghiệm trên động vật, nhữg người đứng đầu các cơ sở y sinh có uy tín nhất ở Mỹ, các giám đốc điều hành các công ty thuốc liên quan đến công nghệ gene, sản xuất vác-xin và nghiên cứu chiến tranh vi trùng.
Ngày 11 tháng 5 năm 1984, một cuộc mít tinh trọng thể đã diễn ra ở điện Capitol (tòa nhà Quốc hội Mỹ) để tôn vinh Wolf Szmuness. Trong số những người tham dự có một nhân vật, đó là tiến sĩ Robert Gallo, người đã công bố việc phát hiện ra vi rút HIV ba tuần lễ trước đó.
Điểm danh sách những người đóng góp và tham gia cuộc hội nghị khác thường được Hội Chữ thập đỏ Mỹ bảo trợ, tôi tự hỏi, không biết điều gì đã thực sự khiến những nhân vật tai to mặt lứn này tập hợp lại để tỏ lòng tôn kính Wolf Szmuness ? Tôi đã sống đủ để nhận ra sự thật chứa đựng trong câu tục ngữ "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã".
Có một mối liên hệ lạ lùng và gỡ giữa ung thư và AIDS, giữa việc thử nghiệm trên động vật và chế tạo vi rút bằng công nghệ gene, giữa công nghệ chiến tranh vi trùng và các công ty thuốc, giữa các cuộc thử nghiệm với người đồng tính và AIDS, giữa các chương trình vác-xin và sự nhiễm trùng nguồn cung cấp máu của quốc gia Tại sao tất cả những con người này từ lĩnh vực khoa học khác nhau lại cùng tham dự các hội nghị cấp cao ấy do Chính phủ Mỹ tổ chức ?
Mặc dầu những người có thẩm quyền về y tế bác bỏ, trên thực tế đã có mối liên hệ giữa cuộc thử nghiệm với những người đồng tính nam của Szmuness và sự bùng phát của dịch AIDS ở các thành phố của nước Mỹ. Đó không phải là sự tưởng tượng của tôi. Và đó không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Càng nghiên cứu kỹ cuộc thử nghiệm viêm gan B thì tôi thấy những mối liên hệ với chiến tranh vi trùng và sự diệt chủng càng trở nên rõ ràng.
▪ Âm mưu diệt chủng bằng AIDS. Phần 5: Phi vụ làm ăn từ con khỉ (05/09/2005)
▪ Âm mưu diệt chủng bằng AIDS. Phần 4:Chiến tranh vi trùng (05/09/2005)
▪ Âm mưu diệt chủng bằng AIDS. Phần 3: Máu người đồng tính (05/09/2005)
▪ Âm mưu duyệt chủng bằng HIV/AIDS? Kỳ 1: Nạn diệt chủng (01/09/2005)
▪ Mỹ, Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác song phương chống AIDS (01/09/2005)
▪ Sống chung với HIV: triển vọng sống sót lâu dài (30/08/2005)
▪ Trung Quốc: Giáo sĩ Hồi giáo tuyên truyền về HIV/Aids ở Ningxia (30/08/2005)
▪ Ấn Độ: Lực lượng an ninh biên giới đối mặt với đại dịch AIDS (30/08/2005)
▪ Nhật Bản tài trợ cho Tanzania 3.2 tỉ yên phòng chống HIV/Aids (29/08/2005)
▪ Úc: tình hình lây nhiễm HIV/AIDS lại gia tăng (29/08/2005)