"Ở quê tôi, mỗi khi có ai bị vết thương chảy máu, người ta thường dùng lá mỏ quạ đắp vào để vết thương mau lành, chóng lên da non (rất công hiệu). Vì thấy đây là bài thuốc hay nên tôi muốn bác sĩ cho biết rõ hơn về loại cây này".
Trả lời:
Cây mỏ quạ còn có tên là hoàng lồ, vàng lồ, xuyên phá thạch. Tên khoa học Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur., thuộc họ Dâu tằm.
Cây nhỏ, thân mềm yếu, nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khỏe, có nhựa mủ trắng, rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được. Thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ. Lá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên, nhấm có vị tê tê ở lưỡi. Cụm hoa hình cầu, đường kính 7-10 mm, màu vàng nhạt, mọc thành đôi hay đơn độc ở kẽ lá. Hoa đơn tính, đực cái khác gốc. Mùa hoa tại Hà Nội là tháng 4.
Cây mỏ quạ mọc hoang và được trồng làm hàng rào ở những đồi hoang hay đất vườn. Thường dùng lá tươi, rễ. Lá mỏ quạ tươi đã được dùng chữa vết thương phần mềm theo kinh nghiệm của cụ lang Long (Hải Dương) như sau: Chủ yếu dùng lá mỏ quạ tươi, rồi tùy theo vết thương, thêm một hai vị khác. Lá mỏ quạ tươi lấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương. Nếu vết thương xuyên thủng thì phải đắp cả hai bên, băng lại. Mỗi ngày rửa và thay băng một lần. Thuốc rửa vết thương là lá trầu không nấu với nước (40 g lá trầu, 2 lít nước, nấu sôi để nguội, thêm vào đó 8 g phèn phi, hòa tan, lọc và dùng rửa vết thương). Sau 3-5 ngày đã đỡ, khi đó hai ngày mới cần rửa và thay băng một lần.
Trường hợp vết thương tiến triển tốt nhưng lâu đầy thịt thì thay thuốc sau: Lá mỏ quạ tươi và lá thòng bong hai vị bằng nhau, giã lẫn cả hai thứ đắp lên vết thương, mỗi ngày rửa và thay băng một lần. 3-4 ngày sau lại thay thuốc sau: lá mỏ quạ tươi, lá thòng bong, lá hàn the ba thứ bằng nhau, cứ 3 ngày mới thay băng một lần để vết thương chóng lên da non.
Sau 2-3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây cau (sao khô) 20 g, phấn cây chè (sao khô) 16 g, ô long vĩ (bồ hóng) 8 g, phèn phi 4 g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vảy và róc thì thôi.
Rễ được dùng trong nhân dân ta và Trung Quốc (Quảng Tây) làm thuốc khứ phong, hoạt huyết phá ứ, chữa ứ tích lâu năm, bị đả thương, phụ nữ kinh bế. Ngày dùng 10-30 g rễ dưới dạng thuốc sắc. Theo kinh nghiệm nhân dân, phụ nữ có thai không dùng được.
GS Đỗ Tất Lợi, Sức Khỏe & Đời Sống
▪ Vai trò của nước bọt (18/04/2005)
▪ Bệnh tưởng và bệnh thờ ơ (18/04/2005)
▪ 2005: xem xét cho nhập khẩu nhiều loại văcxin mới (18/04/2005)
▪ Nên dè chừng với nước ngọt có ga (18/04/2005)
▪ Histerie - chứng bệnh gây ngất hàng loạt (18/04/2005)
▪ Nuôi dưỡng trẻ 8-12 tháng tuổi (18/04/2005)
▪ Tiêm thuốc vào tĩnh mạch có thể gây sốc (18/04/2005)
▪ Ba bệnh nguy hiểm lúc mang thai! (18/04/2005)
▪ Chống lao triệt để nhờ protein ‘báo thức’ (18/04/2005)
▪ 10 nguyên tắc ăn uống phòng bệnh ung thư (15/04/2005)