* Thưa ông, sau bốn năm thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới", đồng chí đánh giá như thế nào về kết quả đạt được và những gì còn hạn chế?
- Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Ðảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã có một số nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, trong đó nhấn mạnh nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như Nghị quyết T.Ư 8 (khóa VII); Nghị quyết T.Ư 3; Nghị quyết T.Ư 7 (khóa VIII); Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX và đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/T.Ư ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới".
Việc thực hiện Nghị quyết 08 - NQ/T.Ư nói trên của Bộ Chính trị trong thời gian qua cho thấy, chúng ta đã và đang tiến hành cải cách tư pháp với một quyết tâm rất mạnh mẽ, có sự chỉ đạo thống nhất. Do vậy, nhận thức và sự quan tâm đối với công tác tư pháp đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực; chất lượng hoạt động tư pháp đã được nâng lên một bước.
Sự cố gắng của các cơ quan tư pháp T.Ư và địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp đã được thể hiện bằng các kết quả cụ thể: Chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tư pháp đã được hoạch định và khẩn trương ban hành nhằm đáp ứng đòi hỏi của xã hội; chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp được phân định rõ ràng hơn; tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được sắp xếp, kiện toàn hợp lý hơn; cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao cả về trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức; cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp và cán bộ tư pháp được quan tâm đầu tư tốt hơn; cơ chế kiểm tra, giám sát của các cơ quan dân cử đối với các cơ quan tư pháp đã từng bước được phát huy; nhận thức về pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, nhân dân đã từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08 mới chỉ tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất và mang tính chất đặt nền móng cho tiến trình cải cách tư pháp một cách toàn diện sau này. Sau mấy năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08, tuy đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng công tác tư pháp và tiến trình cải cách tư pháp còn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế cần khắc phục và giải quyết mạnh mẽ hơn trong thời gian tới như: Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự tuy từng bước được sửa đổi, nhưng còn bất cập, chưa theo kịp tiến trình đổi mới và sự phát triển chung của xã hội.
Pháp luật về thủ tục tố tụng tư pháp hạn chế, việc giải quyết các vụ việc còn rườm rà, thiếu thuận lợi đối với người dân và các cơ quan, tổ chức khi có vấn đề cần đến sự xem xét, xử lý của các cơ quan tư pháp. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn có những bất hợp lý, phần nào chưa đáp ứng được các yêu cầu đổi mới, chưa bắt kịp và phục vụ tốt sự phát triển của các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn quá thiếu, một bộ phận trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị yếu, thậm chí còn sa sút về phẩm chất.
Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu; chế độ, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ và chức trách được giao. Việc xây dựng ý thức chấp hành pháp luật và nâng cao trách nhiệm pháp lý cho mọi tổ chức và công dân thông qua các hoạt động cụ thể của các cơ quan và cán bộ tư pháp chưa hiệu quả.
* Ngoài những bất cập nói trên, còn có những yếu tố nào có thể tác động không tốt đến công tác tư pháp cần giải quyết?
- Cùng với những vấn đề đặt ra nêu trên, trong những năm tới công tác tư pháp còn phải đứng trước nhiều thách thức. Trước hết, như các nhà báo đã biết, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng về số vụ, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội tinh vi, có tổ chức chặt chẽ và nguy hiểm hơn. Tội phạm tham nhũng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Ðối tượng phạm tội là thanh niên, thiếu niên và người nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng cao.
Loại tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu "xã hội đen", tội phạm khủng bố, bắt cóc con tin, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm trong lĩnh vực tin học... sẽ diễn biến phức tạp và có xu hướng phát triển. Bên cạnh đó, các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động sẽ không ngừng tăng về số lượng với mức độ và tính chất phức tạp hơn, đa dạng hơn. Ðặc biệt, trong điều kiện chúng ta thực hiện và phát triển, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực đi vào chiều sâu thì các loại khiếu kiện và tranh chấp nói trên có yếu tố nước ngoài lại càng diễn ra phức tạp.
Ðồng thời, người dân và xã hội đòi hỏi ngày càng cao đối với các cơ quan tư pháp trong việc xử lý tội phạm, trong việc giải quyết các khiếu kiện, bảo vệ quyền công dân. Các hoạt động này phải được thực hiện có hiệu quả, kịp thời, nghiêm minh, bảo đảm công lý. Các cơ quan tư pháp một mặt phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người và phải là những công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm. Sự phát triển nhanh chóng của kinh tế - xã hội đất nước cũng đặt ra yêu cầu phải đề ra những nội dung cải cách tư pháp sao cho phù hợp, thống nhất, đồng bộ với đổi mới hoạt động lập pháp, cải cách hành chính.
* Những vấn đề nêu trên chính là lý do mà Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49, ngày 2-6-2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"?
- Trước những yêu cầu và thách thức như trên, đòi hỏi công tác tư pháp phải được nhìn nhận đúng với tầm quan trọng của nó, phải được cải cách mạnh mẽ, toàn diện, có hệ thống và phải bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trên cơ sở kế thừa, phát huy thành quả mà chúng ta đã đạt được, phù hợp đường lối chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời đáp ứng được chủ trương chủ động hội nhập quốc tế.
Ðiều đó cho thấy, nhu cầu xây dựng và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn 2006 - 2020 là rất cần thiết và cấp bách nhằm đề ra và thực hiện toàn diện, cơ bản những vấn đề cải cách tư pháp, bảo đảm có những nội dung, bước đi phù hợp cải cách hành chính và đổi mới hoạt động lập pháp, góp phần tạo sự đồng bộ, nhất quán trong công cuộc đổi mới đất nước và hoàn thiện hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước ta.
Tuy nhiên, cần thống nhất nhận thức rằng, việc xây dựng Chiến lược cải cách tư pháp là một bước tiếp theo của công cuộc cải cách tư pháp đang tiến hành; cải cách tư pháp phải được thực hiện trên cơ sở kế thừa, phát huy thành quả mà chúng ta đã và đang tiến hành, phù hợp đặc thù về chính trị, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, đáp ứng được chủ trương chủ động hội nhập khu vực và quốc tế.
Với ý nghĩa đó, ngày 2-6-2005 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 49-NQ/T.Ư về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đề cập toàn diện những vấn đề cải cách liên quan tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, cơ quan thi hành án) và các chế định bổ trợ tư pháp. Trong đó xác định tòa án giữ vai trò trung tâm của hệ thống tư pháp và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp. Mục tiêu là giải quyết cơ bản một số tồn tại, hạn chế và những vấn đề bức xúc nhất của công tác tư pháp trong thời gian trước đây để đặt nền móng cho những cải cách, đổi mới toàn diện sau này, nhằm xây dựng nền tư pháp phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong sạch, vững mạnh, công lý, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; trong đó hoạt động tư pháp, mà trung tâm là hoạt động xét xử được tiến hành thông suốt, có hiệu lực và hiệu quả cao.
* Xin trân trọng cảm ơn ông.
THẾ LÂN (Thực hiện)
|