Thứ nhất, mối quan hệ giữa luật kinh doanh bất động sản và các văn bản luật khác. Trong hệ thống pháp luật hiện hành và cả dự án đang được xây dựng, có nhiều vấn đề liên quan đến lĩnh vực bất động sản được quy định trong Bộ Luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Thương mại, Luật Nhà ở...
Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định bất động sản gồm đất đai, nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, các tài sản khác gắn liền với đất đai và các tài sản khác do pháp luật quy định. Đối với nhà ở, Bộ Luật Dân sự quy định chủ sở hữu có các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Đối với đất đai, Bộ Luật Dân sự xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Chính phủ thống nhất quản lý, cá nhân, tổ chức, hộ gia đình những người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đấtcó các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thuê lại, thế chấp, tặng cho, góp vốn, thừa kế quyền sử dụng đất.
Luật Đất đai năm 2003 quy định về quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản và các giao dịch về quyền sử dụng đất như quyền chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, chuyển đổi... nhưng không quy định hoạt động kinh doanh quyền sử dụng đất.
Luật Xây dựng năm 2003 quy định trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng để lập công trình xây dựng. Công trình xây dựng được tạo ra bảo đảm yêu cầu chất lượng được đưa vào sử dụng, được bán hoặc kinh doanh. Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiền thương mại và các hoạt động nhằm mục đích thương mại khác. Hàng hoá trong Luật Thương mại bao gồm tất cả các loại động sản, những vật gắn liền với đấtđai. Như vậy, trong hoạt động thương mại hàng hoá gồm cả bất động sản như nhà ở, công trình xây dựng khác. Dự án Luật Nhà ở quy định việc mua bán nhà ở, cho thuê nhà ở chỉ là các giao dịch có tính chất dân sự là mua nhà ở, cho thuê nhà ở nhằm mục đích khai thác giái trị sử dụng của nhà (để ở).
Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 chủ yếu quy định vấn đề quản lý nhà nước đối với rừng....
Do vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta phải xác định rõ đối tượng và phạm vi điều chỉnh như thế nào để Luật Kinh doanh bất động sản không chồng chéo, trùng lặp và hoặc mâu thuẫn với các văn bản luật có liên quan mà Quốc hội đã ban hành hoặc sắp ban hành.
Thứ hai, quy định các loại bất động sản được đưa vào kinh doanh. Luật Kinh doanh bất động sản chỉ điều chỉnh nhà, công trình xây dựng, quyền sử dụng đất hay điều chỉnh tất cả các loại bất động sản được phép kinh doanh gồm nhà, công trình xây dựng quyền sử dụng đất, rừng, vườn cây lâu năm, khu nuôi trồng thuỷ sản và các tài sản khác gắn liền với đất.
Thứ ba, Luật Kinh doanh bất động sản yêu cầu đối với tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bất động sản. Các tổ chức, cá nhân trực tiếp hoạt động kinh doanh hoặc môi giới bất động sản cần phải đáp ứng những điều kiện, tiêu chuẩn chuyên môn và chứng chỉ hành nghề.
Thứ tư , là thiết lập sàn giao dịch kinh doanh bất động sản. Luật Kinh doanh bất động sản quy định theo hướng: bắt buộc mọi giao dịch về bất động sản phải thông qua sàn giao dịch. Nội dung hợp đồng trong kinh doanh bất động sản cần được quy định như thế nào để bảo đảm quyền lợi cũng như quyền tự do thoả thuận của các bên tham gia giao dịch và đồng thời hạn chế, giảm bớt phiền hà, chi phí giao dịch và lành mạnh thị trường.
Thứ năm là cơ quan quản lý Nhà nước về bất động sản. Hiện nay trên thực tế, mỗi Bộ, ngành chịu trách nhiệm về một hoặc một số lĩnh vực quản lý khác nhau liên quan đến kinh doanh bất động sản. Chính lý do này khiến cho việc vận hành và quản lý hoạt động bất động sản gặp nhiều bất cập.
|