Giấy phép lái xe do nước ngoài cấp có được sử dụng tại Việt Nam?
Các Website khác - 04/10/2005
Hỏi: Tôi đã nhiều năm công tác ở nước ngoài, nên có thi lấy giấy phép lái xe ở nước sở tại đó. Vậy tôi hỏi giấy phép lái xe do nước ngoài cấp có được sử dụng ở Việt Nam không?
Trả lời: Theo quy định hiện hành thì giấy phép lái xe của nước ngoài chưa được sử dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Việt kiều) đã được cấp giấy phép lái xe của nước ngoài hoặc quốc tế đều có thể xin đổi giấy phép lái xe của Việt Nam mà không phải học lại kỹ thuật và thi sát hạch.

Người nước ngoài và Việt kiều có nhu cầu đổi giấy phép lái xe đến Sở Giao thông vận tải - Giao thông công chính tỉnh, thành phố nơi người đó tạm trú để lấy đơn xin đổi giấy phép lái xe đơn được dán ảnh có dấu xác nhận của cơ quan ngoại giao nước đó tại Việt Nam hoặc của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đang quản lý người đó đơn được nộp cùng hồ sơ gồm bản photocopy giấy phép lái xe nước ngoài hoặc quốc tế cùng bản dịch có công chứng (công chứng Việt Nam hoặc chứng thực của cơ quan ngoại giao, cơ quan quản lý người nước ngoài đó), bản photocopy hộ chiếu, visa. Phòng quản lý phương tiện cơ giới khi tiếp nhận hồ sơ sẽ kiểm tra đối chiếu với bản gốc các giấy tờ trên.

Việc cấp đổi giấy phép lái xe chỉ được xét khi giấy phép lái xe đó còn giá trị sử dụng. Giấy phép mới do Việt Nam cấp có thời hạn sử dụng phù hợp hạn sử dụng của giấy phép lái xe nước ngoài và phù hợp giấy phép cùng loại của Việt Nam: không vượt quá thời hạn người nước ngoài hoặc Việt kiều lưu trú tại Việt Nam. Giấy phép lái xe mới tương ứng với những hạng giấy phép mà người xin cấp đã được cấp ở nước ngoài.

Theo Đời sống và Pháp luật

--------------------------------------

Lập biên bản về vi phạm hành chính

Hỏi: Thôn trưởng, tổ trưởng dân phố có được lập biên bản về vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức trên địa bàn của thôn, tổ dân phố không?

Trả lời: Biên bản về vi phạm hành chính là văn bản áp dụng pháp luật do các cá nhân có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thực hiện khi đang thi hành công vụ phát hiện ra vi phạm. Điều 55 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: "Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ các trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản". Biên bản về vi phạm hành chính phải được lập thành hai bản, khi lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm một bản. Nếu vụ việc vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì người đó phải gửi biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt.

Trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố là người đại diện cho nhân dân và đại diện cho chính quyền cấp xã (phường, thị trấn) thực hiện một số nhiệm vụ hành chính tại thôn và tổ dân phố được quy định tại Điều 12 của Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố ban hành kèm theo Quyết định số 13/2002/QĐ-BNV ngày 6-12-2002 của Bộ Nội vụ như (triệu tập và chủ trì hội nghị thôn; tổ chức thực hiện các quyết định của thôn; tổ chức nhân dân thực hiện tốt Quy chế dân chủ; tổ chức xây dựng và thực hiện hương ước: bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật tự an toàn trong thôn...), không phải là người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Đồng thời, thôn và tổ dân phố không phải là một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư.

Do đó, trưởng thôn, tổ trưởng dân phố không được thực hiện việc lập biên bản về vi phạm hành chính của cá nhân, tổ chức trên địa bàn của thôn, tổ dân phố.

Theo Pháp luật Việt Nam